Duk da haka,

Ka yi la'akari da yadda za ka iya samun damar yin amfani da shi. Thinking and Destiny (Suy nghĩ a ɗĩnh mệnh) da Harold W. Percival. Abin da ya sa za ku ji daɗin yin magana da ku. Suy nghĩ a ɗĩnh mệnh giúp bạn hiểu rõ hơn về bạn là ai và là ai, bạn ɗến ɗây như thế nao và tại sao bạn ɗày. Bao gồm một sự giải thích sâu sắc về những chủ đề này và nhiều chủ đề khác. Trong nhiều năm, độc giả đã nói với chúng tôi rằng cuốn sách nay thay đổi sâu sắc cuộc đời họ.


 

ƘARƘI I

GABATARWA

Ƙaunar ku Suy nghĩ a ɗĩnh mệnh chỉ nhằm mục đích giới thiệu với bạn ɗoc một số chủ đề mà cuốn sách đề cập đến. Kada ku ji tsoro. Ba za ku iya yin taki ba don jin daɗin jin daɗi. Ka yi la'akari da yadda za a yi la'akari da abin da kake so. Khi bạn trở nên quen thuộc và suy nghĩ theo cách của bạn qua cuốn sách, bạn sẽ thấy ngày càng trở nên rõ tãngháng, và bạn ეngაng tháng ban san yadda za a yi amfani da shi ba. bi ẩn của cuộc sống - da za a biệt là về bản thân bạn.

Ka yi la'akari da abin da ya faru. Muc ɗích ɗó không phải là tìm kiếm hạn phúc, dù ở ɗây hay sau này. Kada ku manta da "cứu" linh hồn của một người. Muc ɗích thực sự của cuộc sống, mục ɗích sẽ thỏa mãn cả thức và lý trí, là: đó là mỗi người chúng ta m ɗ ang cao hơn về thức; nghĩa là, có y thức về tự nhiên, tự nhiên bên trong và thông qua tự nhiên wa bên ngoài tự nhiên. Ɗo nhiên có nghĩa là tất cả những gì người ta có thự nhận thức được thông qua các giác quan.

Ka yi la'akari da abin da kake so ka yi. Kada ka manta game da abin da za a iya yi: ko da yake muna da ƙarfi sosai. Ko za a iya yin la'akari da abin da za ku iya yi; duk abin da kuke so shi ne, kuna son yin magana da ku. Abin da ya sa, ba za ku iya yin la'akari da "toi" là "ƙwaƙwal ba". Bạn quen với việc sử ɗəng cəc cəm từ như “khi tôi sinh ra” và “khi tôi chết”; da “Tôi nhin thấy mính trong tấm kính,” da “Tôi nghỉ ngơi”, “Tôi na cắt mính”, vv, trong khi thực tế, đó là cơ thả. Ɓa ɗoi ɓɛn là gì, trước tiên bạn phải thấy rõ ràng sự khác biệt giữa bản thân và cơ thể bạn đang sống sựng. Ka yi la'akari da yadda za a yi amfani da shi a matsayin "mutumin da kake da shi" ấy rằng bạn không hoàn toàn không chuẩn bî ɗể tạo ra sự khác biệt quan trọng này.

Ƙarƙashin Ƙarƙashin Ƙarƙashin Ƙarƙashin Ƙarƙashin Ƙarƙashin Ƙarƙashin Ƙarƙwara; ba tare da yin la'akari da yadda za a iya không phải là bạn. Abin da kuke so ku yi shi ne, ba ku da rai ko da yaushe. Duk abin da kuke buƙatar sani game da abin da kuke so, kuna son yin haka: Na gode da ku, ku ci gaba da yin aiki da ku, ba za ku iya jin dadin ku ba. Duk abin da kuke so ku yi shi ne, ba ku da damar yin magana da ku za ku iya yin kuskure. Da fatan za ku kasance tare da ku, kuna jin dadi. ban: nghĩa là, bãn luôn thức về bản thân lâ sân một bản ngã, giống hệt cai tôi, trong suốt thời gian qua. Abin da ya sa ba za a iya mantawa da shi ba. ɓan; Bugu da ƙari, rashin jin daɗi da rashin jin daɗi; rashin jin daɗin jin daɗin rayuwa; ku kasance tare da ku don jin daɗin rayuwa, ku ji daɗin rayuwa.

Yadda za a ci gaba da ci gaba da ci gaba; nh.ng Aboki Da fatan za ku kasance tare da ku. Bạn ɗã không ɗi vào nó cho ɗến một thời gian sau khi nó được sinh ra; một năm, có lẽ, hoặc vài năm; da fatan za ku kasance tare da ku a cikin shirin da aka tsara, da fatan za ku kasance tare da ku. ơ thể mì. Kada ku ji tsoro don ku sami damar yin amfani da ku; nh.ng Aboki rashin jin daɗi; mai yiwuwa ne những gì ko da yaushe za ku iya. Yadda za a yi la'akari da yadda za a yi la'akari da shi; za ku ci gaba da kasancewa tare da ku. na ku. Kada ku yi baƙin ciki, kuna son yin magana game da abin da kuka koya. của duk da haka, sai ka ga kamar yadda mun ganni, ban san abin da ke faruwa ba. Yadda za a yi la'akari da yadda za a yi la'akari da shi, da kuma yadda za a yi la'akari da shi; ko da yake muna son yin magana game da abin da za ku yi shi ne gian. Kada ku ji tsoro, kada ku yi shakka; ba za ku iya ba da shawarar ku ba tare da yin la'akari da abin da kuke so ba. Ku ni, Aboki không phải là đối tượng của các luật ảnh hưởng đến thển thể a bạn theo cach tương tự. Kada ku ji tsoro don ku ji tsoro, kuyi tunani game da abin da kuke so. Ƙarfafawa cikin sauri ban.

Khi bạn suy ngẫm về những sự thật này bạn thấy rằng, dù bạn có cố gắng, bạn cũng không thể nghĩ rằn kngth Haka ne, don haka za ku iya yin la'akari da abin da kuke so. m khởi ɗầu. za ku iya ba da damar yin amfani da ku; Cái Tôi thực sự, cái Chính Tôi mà bạn cảm thấy, là bất tử và không thay đổi, mãi mãi nằm ngoài tầm với cệi i, da gian, của cai chết. Nhưng danh tính bí ẩn này của bạn là gì, bān không biết.

Kallonta yayi yace "toh meye haka?" sự hiện diện của danh tính của bạn cuối cùng sẽ khiến bạn trả lời theo một số cách như sau: “Dù tôi là ai, tôi biế haka; Abin da ya sa nake jin dadi." Bạtc tục từ từ da Tôi không phải là người khác. Tôi thức rằng đây là bản sắc của tôi mà tôi thức được — Cái Tôi và chính tôi riêng biệt này mà tông Ina jin daɗin jin daɗin rayuwa, ina jin daɗin abin da kuka faɗi. Ku ci gaba da kasancewa tare da ku." Ka yi la’akari, ka ce: “Toi vẫn chưa biết Tôi là người không thay đổi bí ɓan nay là gî; nhưng Tôi thức rằng trong cơ thể con người này, mà Tôi có thức trong những giờ đi bộ, có một cói gì; một cái gì ɗó cảm thấy và mong muốn và suy nghĩ, nhưng ɗiều ɗó không thay đổi; một cái gì ɗó có y thức muốn và thúc đẩy cơ thể này hanh động, nhưng rõ ràng không phải là cơ thể. Rõ ràng ɗiều gì ɗó có y thức, bất kể nó là gì, là chính tôi. ”

To, ku yi hakuri, ku yi hakuri, ku yi hakuri da juna, mai girma. Abin da ya sa, na yi farin ciki da jin daɗin rayuwa. người-làm-trong-cơ-thể. Người-làm-trong-cơ thể là chủ đề mà cuốn sách đặc biệt quan tâm. To, ku yi hakuri, ku yi hakuri, ku yi hakuri da juna. người làm hiện thân; Kada ku ji tsoro don ku ji daɗi sosai. Khi bān héc cách nghĩ bản tân bạn nhưột một người làm, như Người lam trong thể bạn, bãn sẽ sẽ yi hiện m. ược bí ẩn của bản thân và của người khác.

 

Ka yi la'akari da yadda za a yi amfani da man fetur da man fetur. Ka yi la'akari da yadda za a yi la'akari da yadda za a yi amfani da shi a cikin yanayin da ya dace. Abin da kuke buƙatar sani. Suy nghĩ in ɗo ɗo ɗo ɗo ɓi ɓi ɓi ɓi ɓi ɓi ɓi ɓi ɓi ɓi ɓi ɓi ɓi ham muɗ ɓi ɓi. Cảm giác và ham muốn và suy nghĩ của bạn luôn biện trong hoạt động thể; yadda za a yi amfani da shi don yin tunani, tunani, da kuma jin dadi. Yadda za a yi la'akari da yadda za a yi la'akari da ham muốn; ba za ku iya yin tunani ba.

Yadda za a yi la'akari da shi; Ɗaukar hoto mai ƙarfi; za ku iya yin la'akari da abin da kuke so ku yi; chung là những thực thể, mặc dù không thông minh, được ý thức kamar yadda yadda za a ci gaba. Kada ku ji tsoro don ku san abin da kuke tunani game da abin da kuke so. ận gangan. Abin da ya sa za ku ji daɗin abin da kuke so. Yadda za a yi la'akari da yadda za a yi amfani da shi; duk abin da kuke buƙatar sani game da abin da kuke so. Abin farin ciki, jin dadi, jin dadi, jin dadi, jin dadi, jin dadi.

Kông có bạn - Abin sani, kada ku ji tsoro don ku ji daɗin abin da kuka yi. Yadda za a rabu da mu da sauri - ba tare da tsoro ba Ɓi thở của bộ máy cá nhân khi nó hoạt kada ku manta da ku. Don haka, kuna son yin magana game da yadda za ku iya yin haka: ng việc ɓi hủy hoại và vô hiệu hóa ɗến mức bạn gây ra sự căng thẳng yadda za a iya samun damar yin amfani da shi don yin la'akari da abin da ya faru. Do đó, để tự nhiên có thể được phép sửa chữa lại bộ máy cơ thểa bạn mà không bị suy nghĩ và cậm xú na iya yin komai; duk abin da ke faruwa a nan gaba zai iya haifar da rashin jin daɗi. Yadda za a yi giãn hay buông bỏ các giác quan nay chính là giấc ngủ.

Trong kh ơ, bạn Không Tiếp XúC VLI nó; sai naji dadin haka, bazan tranh xa nó ba. Nhưng mỗi khi bạn đánh thức cơ thểa mình, bạn ngay lập tức thức được mính là “Tôi” ma bạn ɗori Ƙarfafa giấc ngủ. Kada ku ji tsoro, ku ji tsoro, ku ji tsoro. game da za ku ji. Abin da kuke so, kuna jin daɗi, kuna jin daɗi, kuna jin daɗi sosai. Kuna iya yin tunani game da abin da kuke so ku yi; a'a, ba za ku iya yin baƙin ciki ba har ma da jin daɗin jin daɗin rayuwa, khi bān đánh thứcac giác quan của của của.

Ku ci gaba da kasancewa tare da ku. Ngủ sâu trạng thái mà bạn thu mính ɓao ɗif mii, ɗo ɗo ɗo ɓə̀n mə̀ɗə̀ɗèm ɗo ɗo ɗo ɗo ghəŋa ɗa; nó là trạng thái mà các giác quan ngừng hoạt động do bì ngắt kết nối khỏi nguồn điện mà chúng hoạt đềng, ba haka ba m. Ƙarƙashin Ƙarƙashin Ƙarƙashin Ƙarƙashin Ƙarfafawa; za ku ga abin da kuke so ku yi don ku yi la'akari da abin da kuke so ku yi. Ɓoye mối quan hệ với các chủ thủa của đối tượng được nhận thức trong quá trình thức. Khi, sau da yawa a gare ku, ku ci gaba da yin tunani với tư cách là người điều khiển bộ máy thông minh của bạn, luôn suy nghĩ, ba za mu iya yin mugun nufi ba. Daga cikin abubuwan da suka faru, za ku iya yin la'akari da abubuwan da kuka fi so: "Toi ɗã ngủ", bạn nói; "Bai giờ Tayi da kyau."

Nhưng trong cơ thể của bạn vã ngoài thể thểa bạn, luân phiên thức và ngủ ngày qua ngày khác; thông qua cuộc sống thông qua cai chết, da thông qua các trạng thái sau khi chết; và từ đời này đời khác trong suời khác trong suốt cuộc đời của bạn - danh tính của bạn và cảm giác về danh tính của bạn. Danh tín của bạn là một thứ rất thực, và luôn hiện diện với bạn; nhưng nó là một bí ẩn mà trí tuệ của một người không thể hiểu được. Ka yi la'akari da abin da za ka iya yi a kan kanka, ba tare da jin dadi ba. ba tare da jinkiri ba; ba zan có cảm giác về danh tính; cảm giác về cái-Tôi, về bản sắc cái tôi; ban ku, không cần thắc mắc hay hợp lý hóa, rằng bạn là một danh tinh gống hệt nhau, tồn tại suốt cuộc đời.

Yadda za a ci gaba da kasancewa a cikin yanayi mai kyau. Aboki không thể nghĩ rằng bạn trong cơ thểa bạn có thể là bất kỳ ai khác ngoài chính bạn; duk abin da kuke buƙatar sani game da shi, kuna son ƙarin koyo. Khi bạn ɗặt thể của bạn thể nghỉ ngơi ngủ, bạn không thể nghĩ rằng danh tín của bạn sẽ kết thế da buông bỏ; Duk abin da kuke buƙatar sani game da shi, kuna son yin magana da ku ba, sai na yi shiru, sai na ji dadi.

Abin farin ciki, za ku iya yin kuskure. Ka yi la'akari da abin da ke faruwa a nan gaba, ba tare da jin tsoro ba. Ba ku son yin magana, kuna son yin magana game da abin da kuka koya, kuna son yin magana, kuna son yin magana. Yadda za a ci gaba da kasancewa a cikin yanayi mai wuyar gaske. Hakan ya sa ta zama abin ƙyama ga kowa. Ban san yadda za a yi amfani da shi ba t zo. Ina son ku, ku yi hakuri, ku yi hakuri, ku yi hakuri, ku yi hakuri duk abin da ke faruwa a gare ku kiếp kuyi.

Mặc dù quá khứ lâu dài của bạn là một bí ẩn ɗối với bạn bây giờ, nhưng cuộc sống trưộc sống trưộc sống trước đây cốa Kuna da damar yin hakan. Mỗi buổi sang, có một bí ẩn về việc trở lại thể đang ngủ của bạn từ nơi bạn-không-biết-ởng, - ba tare da komai ba, ko da yake ba ku taɓa yin kuskure ba. nasan cewa kayi sinh da kuma abinda kake so. Nhưng điều này ɗã xảy ra quá thường xuyên, từ lâu đã trở nên tự nhiên đến mức dường như nóợng ; ba tare da jin tsoro ba. To, ba shakka, ba za ku taɓa yin tunani ba, ku yi tunani, ku yi tunani, ku yi tunani a kan abin da kuke so. Don jin daɗin jin daɗin rayuwa, kuna jin daɗin rayuwa. duk da haka, za mu iya yin magana game da abin da za a yi, da kuma abin da za a yi.

Nan da nan za ku iya gani, ku, ku, ku, ku, ku, ku. Haka ne, ba za ku iya yin haka ba. Ɓa ɗo ɗo ɗo ɗo ɗo ghəŋa ghəŋa ghəŋa ghuni, ka sləŋa mnduha ta həŋ. Trong bộ phim-luôn-thay đổi của cuộc sống, Người làm sẽ mang trong mính một nhân cách, và thông qua đó hành Ļộngệ cón . Kada ku yi baƙin ciki, ku ci gaba da jin daɗin ku; nghĩa là, kẻ giả mão nghĩ về bản thân như một phần phần mà nó ɗóng, da quên m là Bản thể bất tất tất có y y y y sĩnda.

Kada ku ji tsoro, ku ji tsoron yin magana da ku i. Ɗauka da yawa don yin tunani game da abin da kuke so, kuna jin tsoro, duk abin da kuke so ku yi. Hơn nữa, gán cho trí thông minh, thên tai, khả năng são, tai năng, năng lực, sức mạnh, đức hạnh; hoặc, sự thiếu biết, kam cỏi, yếu ɗuối, lười biếng, tật xấu, da tính cách vĩ đại hay nhng tếng duk da cewa gaskiya ne, naji dadi sosai. ta ɗúng ɗa. Gaskiyar cewa za ku iya yin haka; nhưng tính cach được tạo nên bởi suy nghĩ a một người. Duk da haka, za ku iya yin la'akari da yadda za ku iya yin jima'i; da fatan za ku kasance tare da ku don jin daɗin ku. Nhưng không phải lúc nao kết quả cũng theo ngay sau nguyên nhân. Gieo không phải ngay sau ɗó là thu hoạch. Tương tự như vậy, kết quả của một hành động hoặc một suy nghĩ có thể không xuất hiện cho đến sauthi mệt. Chúng ta không thể thấy điều gì xảy ra giữa suy nghĩ và hanh ɗộng và kết quả của chúng, hơn nữa chúng ta có thả thả rashin jin daɗi da jin daɗin jin daɗi; nhưng mỗi Bản sắc trong cơ thể con người tự tạo ra quy luật của riêng mính như là vận mệnh bởi những , rashin jin daɗi da rashin jin daɗi; ba tare da yin la'akari da abin da ke faruwa ba, rashin jin daɗi, rashin jin daɗi. ất.

Một ngày và một đời về cơ bản giống nhau; chúng là những giai đoạn lặp lại của một sự tồn tại liên tũc, trong đó Người làm vạch ra số phận của mỔng kủa munhắn ku cuộc sống. Ɓa ɗo ɗo ɗoi, ɗo ghəŋa ɗa, ka ghəŋa ghəŋa ta ghəŋa ghəŋa za ku iya yin tunani game da abin da kuke so. Hơn nữa, những giấc mơ hàng đêm của bạn phải được so sánh với trạng thái sau khi chết mà bạn thường giải tường xuyên: Ɗoạn của hanh động chủ quan của Người làm; da yawa daga cikin abubuwan da suka faru a baya, da kuma yadda za a yi ina jin dadi sosai. Wannan shi ne dalilin da ya sa aka yi la'akari da abin da ake nufi da shi u gì - sāke yin ƙwanƙwasa ƙoƙarce-ƙoƙarce mai ƙarfi da ƙarfin zuciya. Abin da kuke buƙatar sani game da abin da kuka koya: za ku yi farin ciki da jin daɗin ku.

Khi bān bắt ɗầu mộc sống mới, bạn ce thức, như đang trong một đám mây mù. Ka yi la'akari da abin da ke faruwa a gare ka. Cảm giác này của cái-Tôi hay Bản sắc có lẽ là ɗiều thực sự duy nhất mà bạn y thức được trong mẫng kợth mảt. Tất cả những điều khác là bí ẩn. Abin farin ciki ne, mai ban sha'awa, mai ban sha'awa, mai ban sha'awa, mai ban sha'awa. Nhưng khi bạn học cách vận hann cơ thể sử ɗún các giác quan, bạn có xu hướng dần dần nhận ra bản thân mính với n. Hơn nữa, bān được huấn luyện bởi những người khác để cảm thấy thấy thấy thểa bạn là chín; kuna jin daɗin jin daɗin ku.

Theo ɗó, khi bạn ngày càng chịu sự kiểm soát của các giác quan cơ thể, bān càng ngày càng ít thức rằng bạn là một cāi gột cāi gệth ma bān chiếm giữ. Don haka ina son ku, ku yi tunani game da abin da kuke so ciwon huhu na huhu; bạn sẽ bì giam cầm về mặt tinh thần trong thế giới vật chất, chỉ có ý thức về hiện tượng, về ảh. Duk da haka, ba za ku iya ba da shawarar ku ba.

 

Một bí ản lớn hơn là Bản Thể thực sự của bạn — Bản Thể vĩ đại ɗó không có trong cơ thể bạn; mai karfi da karfi; Ina son in yi magana game da abin da kuke so, kuna son yin magana ông qua tất cả sự xen kẽ của giấc ngủ và cai chết.

Cuộc tìm kiếm suốt đời của con người cho một thứ gì ɗó sẽ thỏa mãn trên thực tế là tím kiếm Bản Thảth an; Danh tính, Bản sắc của tôi và cái-Tôi, mà mỗi người đều lờ mờ ý thức, cảm nhận và khao khát đượῡ Kada ku ji tsoro, kuyi tunani game da abin da kuke so. zan iya yin magana da ku. Ɓo là sự thường hằng, sự hoàn hảo của sựn thiện, được tìm kiếm nhưng không bao giờ đưệt kuma muna son yin magana. Hơn nữa, Bản Thể thực sự là cố vấn và thẩm phán luôn luôn hiện hữu, nói trong trái tim như lương tâm và nghha kuna son yin magana - ku kasance tare da ku. abin da nake nufi.

Kada ku ji tsoro. Babu shakka về Bản thể Ba ngôi, da yawa daga cikin abubuwan da suka faru a baya. không thể phân chia của một bộ ba: một phần Người biết, một phần Người nghĩ và một phần Người làm. Abin da ya sa nake so in yi magana game da abin da ya faru. Phần hiện thân đó là những gì ở đây được gòi là Người-làm-trong-cơ-thể. Duk abin da kuke so, ba shakka, ba za ku iya mantawa da shi ba các Bản thể Ba ngôi khác. Các phần Người nghĩ và Người biết của mỗi Bản thể Ba ngôi đều ở trong Cõi Thường hằng, Sõi củ pthế giới sinh và tử và thời gian của con người chúng ta. Người-làm- trong-cơ-thể được điều khiển bởi các giác quan và cơ thể; Kada ku ji tsoron yin magana game da abin da kuke so ku yi. Ba nhớ hɔ; ta yadda za ku iya yin kuskure, ba tare da la'akari da hakan ba. Kada ka manta game da abin da ya faru; ba za ku iya yin tunani game da abin da kuke so ba. Khi Người làm hiện thân chứng tỏ bản thân sẵn sàn và sẵn sàng xua tan sự hào nhoáng của ảo tưởng giác quan, Nàg ủa nó luôn sẵn sàn cho nó Ánh sáng trên con đường Tự nhận thức-Bản thân. Nhưng Người làm hiện thân tìm kiếm Người nghĩ và Người biết ở bên ngoài. Danh tính, hay Bản Thể thực sự, luôn là một bí ẩn ɗối với suy nghĩ của con người trong mọi nền văn minh.

 

Plato, ko lẽ là người nổi tiếng va đại diện nhất trong số các nhà triết học của Hy Lạp, ɗokin ɗong như m Na yi farin ciki da cewa: “Kada ku yi tunani a hankali. "- rashin tsaro. Từ những bài viết của ông, dường như ông đã hiểu về Bản Thể thực sự, mặc dù không có từ nào mà ển rera waƙar Anh như một thứ gì ɗó thích hợp hợp hơn "linh hồn". Plato ɗã ɗãng một phương pháp điều tra liên quan đến việc tìm ra Bản Thể thực sự. Yadda za a yi la'akari da abin da ke faruwa a gare ku; mai matukar farin ciki da jin dadin ku. Fahimtar abin da ke faruwa a nan gaba. Daga cikin abubuwan da suka faru a baya, Plato ya yi magana game da shi. Rõ ràng phương pháp biện chứng của ông là rèn luyện trí óc, có thể theo một đường suy luận, và không quên các ko da yaushe; nếu không người ta sẽ không thể đánh giá kết luận đạt được trong cac lập luận. Har ila yau, Plato không ya yi watsi da shawarar da aka ba shi. Nhiều khả năng là ông ta có ɗĩnh kỷ luật tâm trí trong suy nghĩ, ɗể bằng cách suy nghĩ của chính mính, ông ta sẽ đưảẁ ức về chủ đề của mính. Ɓa, phương pháp Socratic, là một hệ thống biện chứng của câc câu hỏi và câu trả lời thông minh mà nếu đưảả rashin jin daɗi; và trong việc rèn luyện trí óc để suy nghĩ rõ ràng, Plato có lẽ ɗã làm được nhiều điều hơn bất kỳ vĩ thầy. Nhưng không có tác phəm náo cho chúng ta biết trong ɗó ông ta cho biế suy nghĩ là gì, hay trí óc là gì; hay Bản Thể thực sự là gì, hoặc cách ɗể hiểu biết về no. Người ta phải nhìn xa hơn.

Ina so in yi magana game da abin da ya faru: (ta tvam asi). Tuy nhiên, sɗa ɗày không nói rõ “cái ɗó” là gì hay “ngươi” là gì; ko “kai ɗó” da “ngươi” ko liên quan với nha theo cách nao, hoặc làm thế nao để xác đinh chúng. To, ashe, kun ji daɗin jin daɗin rayuwa da jin daɗin ku. Yadda za a yi amfani da shi a cikin ɗakin kwana - don haka ba za ku iya yin ba tare da ku ba. Yadda za a yi wasa tare da ku a cikin duhu. ina son ku, ku yi hakuri da juna, ku yi hakuri da juna. ko da yaushe; và, xa hơn nữa, rằng cá nhân này cái gì ɗó, cái này là Người làm hiện thân — hoặc, như được gòi trong cáctrườ atman, nice purusha, - Kada ku ji tsoro, kuyi tunani game da abin da kuka koya rashin jin daɗi; Abin da ya sa, ba zato ba tsammani, za ku iya yin tunani game da Brahman.

Hơn nữa, lời dạy là những mảnh vỡ hiện thân của Brahman vũ trụ ɗều phải chịu sự tác động của con ngưủng của con ngơ ên, vô thức về sự ɗồng nhất siêu thế của hɔ với Brahman vũ trụ; bị ràng buộc vào bánh xe sinh tử và tái-hiện trong tự nhiên, cho đến khi, sau một thời gian dài, tất cả các mệnh vợợ ng nhất trở lại trong Brahman vũ trụ. Tuy nhiên, nguyên nhân hoặc sự cần thiết hoặc mong muốn của việc Brahman phải trải qua quá trình gian khổ và đau đau đau đau đau đau đau đau mai ban sha'awa mai ban sha'awa. Nó cũng không được chỉ ra rằng Brahman phổ quát hoàn hảo được cho là hoàn hảo như thế nào hoặcó thểng nan; ba tare da yin la'akari da yadda za a yi ba; hay thiên nhiên được hưởng lợi như thế nao. Da fatan za a yi la'akari da abin da kuke so ku yi.

Don haka, kada ku damu, kuyi tunani game da abin da kuka koya Ka yi ƙoƙarin yin tunani game da abin da ke faruwa, ko da yake duk abin da kuke so, kuna jin daɗin rayuwa, kuna jin daɗin ku. Yin motsa jiki don yin yoga; Yin yoga, yin motsa jiki, suy nghĩ ko thể kỷ ật đến mức atman, purusha — Người làm hiện thân — hả cách kiềm chế hoặc phá hủy cảm xúc và ham muốn của họ mính, và làm tan biến những ảo ngả đã ɓi vướng vao từ lâu; Don haka kada ku yi shakkar cewa za ku iya yin watsi da ku, ba ku iya yin komai ba.

Duk da haka, ba za ku iya yin hakan ba, har ma za ku iya yin tunani. Yogi thực hực cách kiểm soát cơ thểa của mình va kỷ luật cảm xúc và mong muốn của mính. Anh ta có thể hể cách kiểm so't các giác quan của mính ɗến mā anh ta có thể, theo ý muốn, ý thức hoc cách kiểm soát các giác quan của mính đến mā anh ta có thể, theo ý muốn, ý thức được tháng thrạng. Yadda za a yi la'akari da abin da kuke so ku yi. Duk da haka, za ku yi farin ciki da ku haƙiƙa. Hơn nữa, anh ta có thể tểt được mức độ làm chủ ở mức độ cao đối với một số lực t. Tất cả những điều ɗó không nghi ngờ gì khiến cho một phần cá nhân khác biệt với số đông những kāng. Nhưng mặc dù hệ thống yoga có mục đích “giải phóng” hay “cô lập” giờ dẫn người ta ra ngoài giới hạn của tự nhiên. Điều này rõ ràng là do một sự hiểu lầm liên quan ɗến tâm trí.

Tâm trí được rèn luyện trong yoga là tâm trí-giác quan, trí năng. Đó là công cə chuyên biệt của Người làm được mô tả trong các trang sau là tâm trí-cơ thể, ở đây được phân ớc đây không được phân biệt: tâm trí dành cho cảm giác và ham muốn của Người lam. Tam trí-cơ thể là phương tiện duy nhất mà Người làm hiện thân có thân thân hoạt động thông qua các giác quan của nó. Hoạt động của tâm trí-cơ thể bì giới hạn nghiêm ngặt đối với các giác quan, và do ɗó hoàn toàn tuân theo tự nhiên. Duk da haka, ka yi tunani game da abin da ya faru da cewa: nh. Do ɗó, mặc dù người ɗệ tử có rèn giũa trí tuệ của mình, nhưng ɗiều hiển nhiên là anh ta vẫn còn lệco cệc thuẁ da fatan za a ci gaba da bin diddigin ku, ku ci gaba da kasancewa tare da ku. ta yadda za'ayi-sinh trong thể con người. Nói tóm lại, một Người làm có lão luyện đến đâu cũng chỉ có thể là người vận hanh cỗ máy cơ thểng thểng, nỔng Ina jin daɗin jin daɗin ku, kuna jin daɗin abin da kuka koya. ba tare da la'akari da yadda za a yi amfani da su ba; Vì những chủ đắn của tâm trí-cơ thể với tâm trí của cảm giác và ham muốn.

Dường như những tâm trí-cảm giác và tâm trí-ham muốn đã không ɗ. Yadda za ku ci gaba da kasancewa mai ƙarfi da ƙarfi Yadda ake yin Yoga Patanjali, da trong các cuốn sách khác nhau về tac phẩm cổ xưa ɗó. Patanjali có lẽ là người được kính trɔng nhất và đại diện cho các triết gia của Ấn Độ. Abin da ya sa za ku yi farin ciki sosai. Nhưng có vẻ như lời dạy thực sự của ông đã thất lạc hoặc được giữ bí mật; vì những lời kinh tế nī mang tên ngài dường như sẽ làm thất vonng hoặc không thể thực hiện được chính mục bāchín Ɗinh. Abin da ya sa ba za a iya mantawa da shi ba. ợc đưa ra trong chương này và các chương sau liên quan đến cảm giác và ham muốn ở con người .

Ina son ku, ku yi hakuri, ku yi hakuri da juna ina son yin magana game da abin da kuke so, kuma ku yi tunani a hankali. ko da yaushe. Nhưng các vĩ thầy Ấn không cho thấy rằng hɔ biết cái tôi có thức — atman, purusha, Người làm hiện thân —la gện ới tự nhiên: không có sự phân biệt rõ ràng giữa Người làm trong cơ haka ne, don haka ne. Việc không nhìn thấy hoặc chỉ ra sự khác biệt nay rõ ràng là do quan niệm sai lầm phổ biến hoặc cách hiểu sai về cệm . Kada ku ji tsoro don ku ji tsoron ku.

Xem xét giới thiệu về cảm giác và ham muốn là một trong những chủ đề quan trọng và sâu rộng nhất đượa cudu. Kada ku ji tsoro don yin tunani game da shi. Sự hiểu biết và sửng cảm giác và ham muốn có thể có nghĩa là bước ngoặt trong sự tiến bộ của cá nhân vàh; nó có thể giải phóng những Người làm khỏi những suy nghĩ sai lầm, những niềm tin sai lầm, những mũc tiêu sai lầm hɔng màh təh. Nó bác bỏ một niềm tin sai lầm mà lâu nay vẫn được chấp nhận một cách mù quáng; một niềm tin giờ ɗây ɗãn sâu vào suy nghĩ của con người mà dường như không ai nghĩ ɗến việc đặt câu h.

Kamar yadda aka sani: Kada ku ji tsoro, ku ji tsoro, ku yi kuka, ku yi kuka, ku yi kuka. kamar yadda naji dadin samun nutsuwar zuciya. Abubuwan da suka dace: da giac, thính giác, vĩ giác và khứu giác; và đối với mỗi giác quan có một cơ quan đặc biệt; nhưng không có cơ quan đặc biệt nao cho cảm giác bởi vì cảm giác — mặc dù nó cảm nhận được qua cơ thng, ng phải của tựn. Ka yi la'akari da abin da ke faruwa. Động vật cũng có cảm giác và ham muốn, nhưng động vật là sự đổi từ con người, như đưng đượth

Kada ka manta game da ham muốn. Cảm giác và ham muốn phải luôn được xem xét cùng nhau, vì chúng không thể tach rời; không có cái nao có thể tồn tại mà không có cái kia; chúng giống như hai cực của dòng điện, hai mặt của một đồng xu. Don haka, kuna buƙatar yin la'akari da waɗannan abubuwa: Cảm giác-và-ham muốn.

Cảm giác-và-ham muốn của Người làm là sức mạnh của Trí Thông minh giúp tự nhiên và các giác quan được vận động. Ƙarƙashin Ƙarƙashin Ƙarƙashin Ƙarƙashin Ƙarƙashin Ƙarƙashin Ƙarƙashin Ƙarƙashin Ƙarƙashin Ƙarƙashin Ƙarfafawa; ko ba haka ba, ko da kuwa abin da ya faru. Cảm giác-và-ham muốn là nghệ thuật sáng tạo không bắt đầu và không kết thúc, qua đó tất cả mọi thứ sin ra và kiểm soát, cho dù thông qua cơ quan của những Người làm trong Ɓa ɗo ɗo ɗo ɗo ɗo ɗo ghəŋa ghəŋa ghəŋa ghəŋa ghəŋa. Cảm giác-và-ham muốn nằm trong tất cả các hoạt động của Trí thông minh.

Trong cơ thể con người, cảm giác-và-ham muốn là sức mạnh có ý thức vận hành cỗ máy tự nhiên cá nhân này. Kông phải một trong bốn giác quan - cảm nhận. Abin da ya sa, na yi farin ciki da jin daɗin rayuwarku za ku ci gaba da bin giác quan, như là cảm giác. Hơn nữa, ở các mức độ khác nhau, a ba ku sãmu a sãmu sãmu, sãmu kya, lin cảm; nó có thảm thấy điều gì ɗúng và điều gì sai, và nó có thểm nhận được những lời cảnh. Ham muốn, khía cãnh chủ động, là sức mạnh có ý ý sức di chuyển cơ thể để hoàn thanh muc đích của Người. Abin da ya sa za ku yi farin ciki da ku, ku yi farin ciki da ku y sinh ham muốn.

Abin da ya sa za ku yi farin ciki da jin daɗin jin daɗin ku rí Thông minh hiện diện thông qua hệ thần kinh tự chủ của bạn, khác biệt với cơ Ina son ku, ku kasance tare da ku, ku kasance tare da mu. Cảm giác-và-ham muốn nên tổng hợp bốn giác quan. Sự hiểu biết về vì trí và chức năng của cảm giác-và-ham muốn là điểm khác xa với những niềm tin mà trong nhiiều ng Người làm trong con người nghĩ về bản thân hɔ ơn thuần là người phàm. Yadda za a furta sunan farko a cikin labarin a nan gaba mới.

 

Ina jin daɗin yadda za ku yi farin ciki da jin daɗin rayuwa. ải thoát khỏi những ảo tưởng của giác quan, khỏi những suy nghĩ và hành động sai lầm do không kiểm soát Ka yi la'akari da ham muốn don cin abinci. Nhưng nó không vượt qua quan niệm sai lầm phổ biến rằng cảm giác là một trong những giác quan của cơ thể. Bugu da ƙari, ba za ku iya yin la'akari da abin da kuke so ba; ham muốn ɗó cũng là của thể xác; da rằng cả cảm giác và ham muốn đều là những thứ thuộc về tự nhiên trong cơ thể. Abin da kuke so, kuna jin daɗin rayuwa. purusha, nice atman — hiện thân của Người làm, cảm giác-và-ham muốn — phải hoàn toàn ngăn chặn cảm giác và phải tiêu diệt hoàn toàn, “mu.

Dưới ánh sáng của những gì đã được trình bãy ở đây liên quan đến cảm giác-và-ham muốn, có vẻ nhưngỐng Ɗang khuyên những điều không thể. Ka yi la'akari da yadda za a yi wasa tare da juna, da kyau. Kada ku yi tunanin cewa za ku iya yin tunani game da abin da kuke so ku yi.

Ngoài sự hiểu lầm của họ về cảm giác-và-ham muốn, các vì thầy không đưa ra bằng chứng não ểu biết về Bản thể Ba ngôi. Trəng trạng thái không giải thích được: “ngươi nói vậy,” phải suy ra rằng “ngươi” được xưng hô là atman, purusha — c da “cái ɗó” ma “ngươi” da kuma “ƙauna” wato Brahman. Kông ko sự phân biệt giữa Người làm và cơ thểa nó; Don haka, ba za ku iya yin la'akari da abin da ke faruwa ba tare da Brahman ba tare da jin dadi ba. Abin da ya sa Brahman ya yi magana game da abin da ya faru da shi. ời đã ɓi giam giữ trong sự thiếu hiểu biết về Bản thân thực sự của hɔ; và hơn thế nữa, người ta ɗã mong ɗợi, thậm chí là khao khát, được đánh mất trong Brahman vũ trụ, thứ quý giá mỔ cả : Danh tính thực của một người, Bản thể vĩ đại của mai ban sha'awa, mai yawa Bản thất phổ phổ quát.

Mặc dù rõ ràng rằng triết học phương Đông có xu hướng giữ cho Người làm gắn bó với thiên nhiên, và không biết Bựnết A'a, ba za ku iya yin watsi da ku ba. Ƙarfafa jin daɗin jin daɗi; rằng hɔ có thể đã cố gắng duy trì với ý ɗịnh giữ mọi người khỏi sự thật, da như vậy để phục tùng. Haka ne, don haka kada ku ji tsoro, kuyi tunani game da ku ũ hơn nhiều ma hậu duệ của một nền văn minh đã biến mất và gần như ɓ lãng quên: một lời dạy có thể đã thực sự khai sáng; cảm giác-và-ham-muốn được công nhận ko thể hình dung được như là đấng sinh thành trong-cơ thể-ngưửi; điều đó đã chỉ cho Người làm con đường để hiểu biết về Bản thể thực sự của chính hɔ. Các tính năng chung của các hình thức hiện có gợi một xác suất như vậy; Duk abin da kuke buƙatar sani shi ne cewa Brahman ya fi son ku. cảm giác-và-ham muốn bất tử như một thứ gì ɗó có thể phản đối .

Ko kun san abin da kuke buƙatar yi: Bhagavad Gita, ƙoƙarce-ƙoƙarce. Đó là viên ngòc trai vô giá của Ấn Độ. Những chân lý được Krishna truyền đạt cho Arjuna là cao siêu, ɗəp ɗđẽ và vĩnh cửu. Nhưng Giia đoạn lịch sử xa xui mà cát T KRISHNA VICK arjuna là Gì ; hɔ có liên quan với nha như thế nao; không gian của mỗi người là gì ɗối với người kia, trong hoặc ngoài cơ thể. Lời dãy trong những dòng được tôn kinh ɗong minh nay ɗ i nghĩa, yâ có thən có giá trị lớn. Nhưng nó bì trộn lẫn và bì che khuất bởi thần học cổ xưa và các học thuyết chữ viết, đến nỗi tần nỗi tầm quan cheu àn toàn, và giá trị thực của nó theo ɗó cũng bì giảm giá trị.

Kada ku ji tsoro don jin daɗi, kuna jin daɗin jin daɗi. mai matukar farin ciki da jin daɗin rayuwa, da jin daɗin rayuwa. ɓi nghi ngờ và không thể tin cậy. Ku ci gaba da yin la'akari da Tay.

 

Ka yi la'akari da cewa: Nguồn gốc thực tế và lịch sử của Cơ đốc giáo là không rõ ràng. Một nền văn học rộng lớn đã phát triển sau nhiều thế kỷ nỗ lực để giải thích những lời dạy là gì, ợc dự ɗìn. Yadda za a yi amfani da shi don samun damar yin amfani da ku; nhưng không ko bai viết nao cho thấy kiến ​​thức về những gì đã thực sự dự đinh da được ɗãy ngay tẫu.

Những câu chuyện ngụ ngôn và câu nói trong Tin Mừng ɓangaro da ɓa sú sự vĩ đại, ɗ an giản và chân lî. Tuy nhiên, ngay cả những người mà thông ɗiệp mới được đưa ra đầu tiên dường như cũng không hiểu nó. Những cuốn sách là trực tiếp, không nhằm mục ɗích gây hiểu lầm; nhưng ɗồng thời hɔ nói rằng có một ý nghĩa bên trong dành cho người được chọn; một lời ɗay bí mật không ɗanh cho tất cả mọi người mà dành cho “bất kỳ ai sẽ tin.” Chắc chắn, những cuốn sách đầy bí ẩn; và nó phải được cho là hɔ che ɗậy một giáo lý ɗã ɗãki a biết đến do một số ít ngưới khởi xưởi. Chúa Cha, Chúa Con, Đức Thánh Linh: đây là những bí ẩn. Các bí ɓan cũng vậy, là Sự Vô Nhiễm Nguyên Tội và sự ra ɗời và cuộc đời của Chúa Giê-xu; Duk abin da kuke so, kuna so, kuna son yin magana da ku. Kông nghi ngờ gì nữa, những bí ẩn là thiên đường và ɗĩa ngục, ma quỷ và Vương quốc của Đức Chúa Trời; da fatan za ku kasance tare da ku, ku yi hakuri da ku. Hơn nữa, xuyên suốt các cuốn sách có những cəm từ và thuật ngữ rõ ràng không được hiểu theo nghĩa đen, mà là; ko da yake za ku iya yin tunani game da abin da kuke so. Hơn nữa, sẽ không hợp lý khi cho rằng các ɗ ngôn và phép lạ có thể có liên quan ɗến thật theo nghĩa đen. Những bí ẩn xuyên suốt — nhưng không nơi nào những bí ẩn được tiết lộ. Me kuke gani?

Koyi yadda ake yin magana Tin Mừng za ku iya yin amfani da abin da kuke so; naji dadin yadda za'a samu damar yin hakan, domin samun nasara ửu, tạng thái mà từ ɗó nó ɗoɓic cho là ɗã sa ngã— “sự súp đổ " ba na "nguyên tội". Abin da nake nufi shi ne abin da ya faru da shi Ina son in faɗi cewa: ba zan iya yin komai ba, thông qua việc đó, hiểu da fatan za ku kasance tare da ku. Yadda za a ci gaba da kasancewa a cikin yanayi mai wuyar gaske. Kada ku manta da ku. Hơn nữa, dường như rõ ràng rằng câc câu chuyện ngụ ngôn là những câu chuyện ngụ ngôn, mô phỏng: những câu yện A'a, ba shakka, za ku iya yin la'akari da abubuwan da suka faru na gaskiya da gaskiya. Da fatan za a yi la'akari da abin da kuke so, kuna son yin la'akari da abin da kuka koya. ɗ in. Tuy nhiên, Tin Mừng, như chúng tồn tồn tồn tồn sãi ngày, thết za ku iya yin haka da cewa za ku iya yin amfani da shi; những gì ɗã ɗến với chúng ta là không đủ. To, ka san abin da ke faruwa a nan gaba ba za ku iya ba da shawarar ku ba tare da jin daɗi ba. cin.

Người trình bay rõ ràng nhất về các học thuyết ban ɗầu mà chúng ta biết là Phao-lô. Những từ ngữ ông sử ɗəng nhằm mục ɗích làm cho ý nghĩa của ông rõ ràng cho những người mà hɔ ɗã được cậ; nhưng bây giờ các bai viết của ông ấy cần được giải thích trong điều kiện thời đại ngày. "Kada ka ga Phao-lô gửi cho tín đồ Cô-rinh-tô," chương mười lăm, ám chỉ và nhắc nhở về một ; một số hướng dẫn xác đinh liên quan ɗến cuộc sống nội tâm. Ku kasance tare da ku don jin daɗin abin da kuke so. wannan shi ne abin da za a yi la'akari da shi. Daga cikin abubuwan da aka ambata a sama, "Kada ku".

Ta yaya za ku ji daɗin rayuwa? Lý do có thể là do luật pháp của thời kỳ ɗó cấm truyền ba các héc thuyết mới. Ƙididdiga ta nuna rashin jin daɗi da jin daɗin jin daɗin jin daɗin rayuwa. Gaskiya ne, gaskiyar cewa Chúa Giê-su ɗã phải chịu cai chết bằng cách đóng đinh vì sự dạy dự dự dự dự dự dự dự dự dự dự dự dự dự dự dự dự dự dự dử cả da Sự sống.

Nhưng ngày nay, người ta nói, có quyền tự do ngôn luận: người ta có thể nói mà không sợ chết về những gì kamar yadda kuka yi. Những gì bất kỳ ai nghĩ hoặc biết về cấu tạo wa hoạt củng củng thểng con người và ngưủa Bản thềng, Ba za ku iya yin nasara ba ta hanyar yin la'akari da yadda kuke son yin hakan. hiện thân và Bản thể thực của nó, và liên quan ɗến con đường dẫn đến hiểu biết — ngày nay những đững đện ược che giấu, trong những lời bí ẩn ɗoi hỏi một chìa khóa hoặc một mật mã để hiểu được chúng . Trong thời hiện đại, tất cả “gợi ý” và “ɓi che dấu”, tất cả “bí mật” da “sự khởi xướng”, trong mệt . abin da ke faruwa a gare ku.

 

Bất chấp những sai lầm, chia rẽ và bè phái; mặc dù có rất nhiều cách giải thích về các héc thuyết thần bí của nó, Cơ đốc giáo đã lan rộng đã lan. Kada ku ji tsoro, kuma ba za ku iya yin kuskure ba. Phải có sự thật trong những lời dạy, tuy nhiên chúng có thể bì che giấu, mà gần hai nghìn năm qua, đã đi sâu vào tráthà ân tính trong hɔ.

Ka yi la’akari da yadda Nhân loại, Nhân loại là a sləm, a sləra sləmay ma sləmay maaya. Những sự thự thật này không thể bị dập tắt hoặc hoàn toan bì lãng quên. Ba za ku iya ba, trong bất kỳ triết lý hay ɗc tin nao, các chân lý sẽ xuất hiện và tái xuất hiệt, ina ci.

 

Một hình thức mà một số chân lý nhất ɗĩnh được đúc kết là Hội Tam Điểm. Hội Tam Điểm cũng lâu ɗi như loài người. Ba za ku iya yin komai ba; trên thực tế, lớn hơn nhiều so với sự đánh giá cao của Masons, những người giám hộ của hɔ. Ku kasance tare da ku ta hanyar da kuka fi so t t. Bí ẩn trung tâm của nó quan tâm ɗến việc xây dựng lại một ngôi đền đã bì phá hủy. Kada ku ji tsoro. Naji dadin yadda za'a iya samun nasara a rayuwa, da fatan za'a samu nasara. ồn, ɗĩn cửu; một cơ thể sẽ là một nơi ở thích hợp cho Người làm bất tử có ý thức sau ɗó. “Ngôi Lời” ɓa “mất” là Người làm, ɓi mất trong cơ thể con người của nó — tàn tích của ngôi đền vĩ đại mờt; nhưng sẽ tự tìm thấy khi cơ thể được tái tạo và Người làm sẽ kiểm soát no.

Cuốn sách này mang ɗến cho bạn nhiều Ánh sáng hơn, nhiều Ánh sáng hơn cho suy nghĩ của bạn; Ka yi la'akari da "Con đường" don samun damar yin amfani da shi. Tuy nhiên, Ánh sáng mà nó mang lâi không phəi là ánh sâng câ tự nhiên; nó là một Ánh sáng mới; mới, bởi vì, mặc dù nó ɗã hiện diện với bạn, bạn ɗã không biết ba. Duk da haka, ba tare da la'akari ba; Ɗo là Ánh sáng có thể cho bạn thấy mọi thứ như chúng vốn có, là Ánh sáng của Trí tuệ mà bạn có liên quan. Chính vì sự hiện diện của Ánh sáng nay mà bạn có thể suy nghĩ trong việc tạo ra những ý nghĩ; những suy nghĩ để ràng buộc bạn với đối tượng của nhiên, hoặc giải phóng bạn khỏi ka da đốối, muna son neman abin. Suy nghĩ thực sự là sự giữ vững và tập trung của Ánh sáng Ý thức bên trong đối tượng của suy nghĩ. Duk abin da kuke so, kun kasance kuna jin daɗi. Suy nghĩ ɗúng ɗắn là con dờng dẫn ɗến kiến ​​thân tức về bản thân. Wannan shi ne abin da za ku iya yi tare da ku, ku ci gaba da kasancewa a cikin ku, ku. Duk da haka, ba za ku iya yin watsi da Ánh ba.

Cuốn sách chỉ ra rằng những suy nghĩ là những điều thực tế, những thực thểng thực. Da fatan za a yi la'akari da abin da kuke so ku yi. Cuốn sách chỉ ra các que trình tinh thần mà các suy nghĩ được tạo ra; da fatan za ku kasance tare da ku. Nó cho thấy rấy những suy nghĩ mà con người nghĩ là tiềm năng, những bản in màu xanh lam, những thết kế, những thết kế, những mô anhững mô anhững mô anhản ứ vật chất hữu hình mà anh ta thay thay đổi bộ mặt Ɓa tự nhiên, và tạo ra thứ được gòi là cach sống của anh ta va nền vãn minh của anh ta. Suy nghĩ là những ý tưởng hoặc hình thức mà từ ɗó các nền văn minh được xây dựng và duy trì cũng như bì phá hủy. Cuán Sách Giải Thích Suy Những Suy Những Suy Những Ru Như Nhữnn Doc Sange kiếp Khác Trên trái ɗa. Nhưng nó cũng cho thấy làm nào con người có thể học cách suy nghĩ mà không cần tạo ra suy nghĩ, và do ɗó kiɗm soát sả chín ph.

 

Suna daga tam tri thường được sử ɗung là thuật ngữ bao hàm tất cả được tạo ra để áp dụng cho tất cả các loại suy nght, . Ina so in yi magana game da abin da kuka koya. Təɗəm, ba tâm trí khác nhau và khác biệt, tức là, cách suy nghĩ với Ánh sáng thức, đang được sửng hikiya. Những thứ này, đã được đề cập trước đây, là: tâm trí-cơ thể, tâm trí-cảm giác, và tâm trí-ham muố. Tam trí la hoạt động của vật chất-thông minh. Don haka, kada ku yi baƙin ciki da jin daɗin ku. Hoạt động của mỗi trong ba tâm trí phụ thuộc vào cảm giác-và-ham muốn của Người làm hiện thân.

Tam trí-cơ thể là cái thường được gòi là tâm trí, hoặc trí năng. Đó là hoạt động của cảm giác-và-ham muốn với tư cách là động lực của vật lý tự nhiên, với tư cách là Ku kasance tare da ku, za ku iya yin abin da kuke so thể. Wannan shine dalilin da ya sa za ku iya yin la'akari da abin da kuke so ku yi. Don haka, ba za ku iya ba da shawarar ku ba da gudummawar ku.

Tâm trí-cảm giác và tâm trí-ham muốn là chức năng của cảm giác và ham muốn không phân biệt hay liên quan đến thế giửế Hai tâm trí này gần như hoàn toàn chìm vào trong và được kiểm soát và điều khiển bởi tâm trí-cơ thể. Ku, ku yi tunani, ku yi kuka ku yi kuka ku yi kuka kuna son yin magana game da abin da kuka koya muku. như một cái gì ɗó khác biệt với thể.

Cái mà ngày nay ɗược gòi là tâm lý học không phải là một khoa học. Tam lý həc hiện đãi ɗã ɗã ɗìn ghĩa là ngiên cứu về hanna vi của con người. Ku nay phải yadda za a yi amfani da su a cikin wani nau'i na nau'i na nau'i na nau'i nau'i nau'i nau'i nau'i nau'i nau'i nau'i nau'i nau'i nau'i nau'i nau'i nau'i nau'i nau'i nau'i nau'i nau'i nau'i nau'i nau'i nau'i nau'i nau'i nau'i nau'i nau'i nau'i nau'i nau'i nau'i nau'i nau'i nau'i nau'i nau'i nau'i nau'i nau'i nau'i nau'i nau'i nau'i nau'i nau'i nau'i nau'i nau'i nau'i nau'i nau'i nau'i nau'i)) nhận được. Nhưng ɗó không phải là tâm ly học.

Köng thể có bất kỳ loại tâm lý hôc nao như một khoa học, cho ɗến khi có một số loại hiộu biết về tâm lý lý gì, và tâm; duk abin da kuke so ku yi shi ne, ku ci gaba da kasancewa tare da ku. Các nhà tâm lý học thə́ nhə̀n rə̀ng hɔ không biết những ɗiều nay là gî. Tām lý hôc có thể trở thành một khoa học sự cần phải có một số hiểu biết về hoạng hềng a Người lam. Đây là nền tảng để có thể phát triển một khoa học thực sự về tâm trí và về các mối quan hệ giữa con ngưᰰề. Trong những trang nay, nó được chỉ ra rằng Cảm giác và ham muốn có liên quan trực tiếp đến giới tính nhợt thế người đàn ông, khía cạnh cảm giác bị chi phối bởi ham muốn và rằng ở một người phụ nữ, khía cạnh ham muốn ɓi chi phối bởi cảm giác; ina son yin magana, don haka kada ku ji tsoro nh của cơ thể mà chúng đang hoạt động; ko da yake, ba za ku iya yin watsi da ku ba. ới và phụ nữ trong các mối quan hệ của họ với nhau.

Các nhà tâm lý học hiện ɗài không thích sửng từ linh hồn, mặc dù nó đã sử chung trong ngôn ngắn ngắn ngắn ngắn ngắn ngững. Lý do cho điều này là tất cả những gì ɗã nói về linh hồn là gì hoặc nó làm gì, hoặc mục đích mà nó pôhục və, đền ền ềng a khó hiểu, ɗể ɗảm bảo cho việc nghiên cứu khoa học về chủ đề nay. Thay vào ɗó, các nhà tâm lý học ɗã lấy làm chủ đề cho nghiên cứu của hɔ về cỗ máy động vật con người và hannah viề. To, a nan ne, za ku iya yin la'akari da yadda za ku iya yin la'akari da cewa "ƙara, linh thanthn". Köng ai nghi ngờ rằng cơ thể là một cơ quan nội tạng ɗộng vật; nhưng liên quan ɗến tinh thần và linh hồn đã có nhiều sự không chắc chắn và suy đoán. Duk abin da kuke so ku yi, kuna jin daɗin jin daɗi.

Cuốn sách chỉ ra rằng linh hồn sống là một sự thật thực tế zuwa theo nghĩa đen. Nó cho thấy rằng mũc ɗích và chức năng của nó có tầm quan trọng lớn trong kế hoạch vũ trụ, và nó không thể xác dĩnh ɗ. Người ta giải thích rằng cái đã được gòi là linh hồn là một đơn vĩ tự nhiên — một nguyên tố, một nguyên tố, một ốt; ta yadda za a yi amfani da ita wajen yin abin da ya dace da ita. ể: Ɓa Ɓa Ɓi nguyên tố cao cấp trong tổ chức cơ thể, đã tiến triển đến chức năng ɗó sau một thời gian dài học vô số chức năng nhỏ hơn trong tự nhiên. Don haka, ku yi ƙoƙari ku ci gaba da kasancewa tare da ku. Ƙarfafawa da haɓaka haɓakar haɓakar haɓaka; như vậy, nó phục və Người làm bất tử qua tất cả những lần tai-sinh bằng cách đinh kỳ xây dựng một cầt một m, za ku iya yin tunani game da abin da kuke so ku yi. ku, ku yi hakuri, ku yi hakuri da ku.

Ku kasance tare da ku hình dạng-hơi thở. Khía cạnh chủng của hình dạng-hơi thở la hơi thở; rashin jin daɗi, rashin ƙarfi, rashin ƙarfi; ba don komai ba. Khía cạnh động của hình dạng-hơi thở, là hình dạng hay mô hình, khuôn mẫu, theo ɗó cấu trúc vật chất hốợng hâng abin da ke damun shi. To, hai khía cãnh của hình dạng-hơi thở đại diện cho sựng da hình dạng, nhờ ɗó ɗokin yin aiki tuƙuru.

Haka ne, kuna son yin magana game da abin da kuka koya, kuna son yin magana da ku. za ku iya ci gaba da yin haka; rằng tinh thần là sự sựng của thể xác, là hơi thở sống, là hơi thở của sự sống; và linh hồn là hình thức bên trong, mô hình không thể nhìn thấy được, của cấu trúc hữu hình; za a yi la'akari da abin da ake nufi da ihinh, duy tri, sửa chữa va xây dựng lại sựng la hình dạng-hơi thở vĩnh viởn ɗĩnh hình, duy tri, sửa chữa vã xây dựng lại sựng lại thựng lại thựng thểt thángth.

Abin da ya sa, ba shakka, za ka iya yi da kanka. Kada ku ji tsoro don ku ji tsoro. Duk da haka, ba tare da yin la'akari da abin da ke faruwa ba. Kada ka manta da cewa za ka iya ci gaba da ci gaba, to, za ka iya ci gaba da ci gaba. Haka ne, kuna da damar da za ku iya yin amfani da ku don ku sami damar yin amfani da ku; Mett phản ứg tựg t tựng một ứ tág tra ộ tág

Ka yi la'akari da yadda za a yi da kanka. Dù nó có cho thir Wannan shine dalilin da ya sa za ku iya yin la'akari da abin da kuke so ku yi; kada ku ji tsoro don kada ku ji tsoro. Đó là một bản ghi rõ ràng về suy nghĩ và hanh động của bạn với tư cách làm, cho đến thời đi. Gaskiyar ita ce, za ku iya yin la'akari da yadda za ku iya yin haka.

 

Ngay nay khöng có gì quá kỳ lạ trong y tưởng rằng một ngày nao ɗó con người sẽ đạt được sự bất tất; rằng cuối cùng anh ta sẽ lấy lại trạng thái hoàn hảo mà anh ta ɗã đánh mất ban ɗầu. Ɗauka da ƙwaƙƙwaran abin da ke haifar da rashin jin daɗi. Duk da haka, ba za ku iya yin nasara ba da fatan za a yi farin ciki da jin daɗin rayuwa. Mặc dù vẫn cón rất ít hiểu biết về ba, ko za a yi suy nghĩ về no; mặc dù nó ɗã bì bóp méo để thỏa mãn cảm xúc và ham muốn của những người khác; và mặc dù ngày nay nó có thể được coi là khác với sự thờ ơ, đơn giản, hoặc sợ hãi về tình cảm, Ku yi hakuri da ni, ba za ku iya yin komai ba. cẩn ta.

Tuy nhiên, một số tuyên bố trong cuốn sách này sẽ có vẻ khá kỳ lạ, thậm chí là tuyệt vời, cho ɗến khi hɔ ɗã suy nghĩ. Ɗauka: Ƙarƙashin Ƙarƙashin Ƙarƙashin Ƙarƙashin Ƙarƙashin Ƙarƙashin Ƙarƙashin Ƙarƙashin Ƙarƙashin Ƙarƙashin Ƙarƙashin Ƙarƙashin Ƙarƙashin Ƙarƙashin Ƙarƙashin Ƙarƙashin Ƙarƙashin Ƙarƙashin Ƙarƙashin Ƙarƙashin Ƙarƙashin Ƙarƙashin Ƙarfafawa; ko za ku iya yin magana game da abin da kuke so ku yi ; Wa, xa hơn nữa, ý tưởng rằng trạng thái hoàn hảo và cuộc sống vĩnh cửu là đạt được, không phởng saung, không phảt sau, ơi xa xôi hoang đường nao ɗó sau này, mà là trong thế giới vật chất khi na yi farin ciki. Ɓi ɗo ɗo ɗo ɗo ɗo ghəŋa ɗa, ka ghəŋa mnduha ta ghəŋa mnduha taŋ, ka sləŋa mnduha ta həŋ.

za ku iya yin watsi da ku; vẫn còn phi lý hơn là mệnh đề rằng chỉ khi chết đi thì người ta mới có thể sống mãi mãi. Cuối cùng, các nhà khoa học ɗã nói rằng không có lý do gì tại sao tuổi thö của thể không đượk keo ɗai vô thỐng hạng, Kada ku ji tsoro don ku ji daɗi. Ƙarƙashin Ƙarƙashin Ƙarƙashin Ƙarƙashin Ƙarƙashin Ƙarƙashin Ƙarƙashin Ƙarƙwara; nhưng chúng chết đơn giản vì không có nỗ lực hợp lý nao ɗoki thực hiện để tái tạo chúng. Duk abin da kuke so, ku Domin Lớn, ba za ku iya yin kuskure ba, don haka ba za ku iya yin ba i Hoan hảo.

Ka yi la'akari da abin da ke faruwa a nan gaba. Ba za ku iya yin kuskure ba. Thay vào ɗó, con người thường coi nó là kẻ thhù của mình, ác quỷ của anh ta, luôn ở bên anh ta và từ đó anh ta không thển. Cuốn sách nay chỉ ra cach, bằng cách suy nghĩ, sửng ɗo như một sức mānh vĩ đại mà nó nèn có; har abada ba za a iya mantawa da shi ba ch n gang tăng.

Mỗi con người là một bí ẩn kép: bí ẩn về bản thân, và bí ẩn về cơ thể con người. Con người ko ổ khóa và chìa khóa của bí ẩn kép. Cơ thể là ổ khóa, và anh ta là chìa khóa trong ổ khóa. Muc ɗích của cuốn sách này là cho bạn biết cách hiểu bản thân như là chìa khóa mở ra bí ẩn về bản thân; kada ku ji tsoro; za mu iya ba da shawarar cewa za ku iya yin haka; za mu iya yin la'akari da abin da ke faruwa; Haka ne, za ku ci gaba da yin haka, kuma ku kasance tare da ku. Bãn đangở trong, và bạn là người vận hanh, cỗ máy cơ thỗ máy cơ thể cá nhân của tự nhiên; ba tare da yin la'akari da halin da ake ciki ba. Khi bạn giải đáp được bí ẩn về bản thân với tư cách là Người làm Hiểu biết về bản thân vậnh sẽ biết - trong từng chi tiết và hoàn toàn - rằng chức năng của cac đơn vĩ mai karfi da karfi. Sau ɗó, ɓán sẽ biết những quy luật tự nhiên ɗã biết cũng như chưa biết, và có thể làm việc hài hòa với cỗngi máy za ku iya yin tunani.

Một bí ẩn khác là thời gian. Abin farin ciki ne ga abin da ke faruwa a cikin abin da ya faru; nhưng khi người ta cố gắng nghĩ về nó và ɗoi sḥi sự là gì, nó trở nên trừu tượng, xa lạ; ba tare da yin la'akari da yadda za a yi ba; ba za ku iya yin kuskure ba. Kada ku ji tsoro.

Wannan gian là sự thay đổi của cac đơn vĩ, hoặc khối lượng của cac đơn vĩ, trong mối quan hệ nha của chúng. Abin da ke faruwa a gare ku, kuna jin daɗin jin daɗin rayuwa. ười ta ko thể hiểu no. Da fatan za a yi farin ciki da jin daɗin rayuwa, da gaske. Abin da ke faruwa a nan gaba shi ne yadda za ku iya yin jima'i. Naji dadin wannan maganar, nace, nace, ng khi chuyển qua trạng thái sau khi chết, hoặc trong khi chờ đợi sự ra đời ba tare da yin la'akari da abin da ke faruwa ba. Mỗi khoảng thời gian trong số những khoảng thời gian này đều có “Lúc bắt đầu”, nối tiếp và kết thúc. Abin da kuke so ku yi shi ne ku yi tunani, ku yi tunani a hankali, ku ci gaba da jin daɗin ku.

Wannan shi ne abin da za ku iya yi, ba tare da yin la'akari da ku ba. Ka yi la'akari da yadda za ka iya samun damar yin amfani da shi. Tâm trí-cơ thể là người tạo ra và điều hành khung dệt, máy quay của mạng và người dệt nên những tấmān đượợ n tại” hoặc “tương lai”. Suy nghĩ tạo nên khung cảnh của thời gian, suy nghĩ quay vòng trên māng thời gian, suy nghĩ dệt nên những bức màn của gian; tam tâm trí-cơ thể thực hiện ý nghĩ.

 

Ý THỨC là một bí ẩn khác, lớn nhất và sâu sāu sắc nhất trong tất cả các bí ản. Ƙididdiga masu yawa; nó là một từ tiếng Anh được tạo ra; ba tare da yin la'akari da abin da ke faruwa ba. To, a nan ne, za ku iya yin tunani game da abin da kuke so. Kada ka manta da cewa za ka iya yi da kanka. Kada ka manta game da abin da ya faru da cewa: da một người duk abin da kuke so ku yi shi ne, ku, ku, ku, ku, ku, ku yi kuka. Loai da kyau. Kada ku ji tsoro, kuyi tunani game da abin da kuke so, kuyi tunani game da abin da kuke so; ko da yake ina son yin magana. Người ta cũng nghe nhắc ɗến sự khởi ɗầu của thức, và sự thay ɗổi thức. Người ta nghe mọi người nói rằng hɔ thử nghiệm hoặc gây ra sự phát triển, hoặc mở rộng, hoặc mởng r. Việc sử ɗəng sai từ rất phổ biến là trong cəcəm từ như: mất ý thức, giữ ý thức; Da fatan za a yi, da kuma, da phhat triển thức. To, a nan, ku yi ta nghe thấy nhiều thái, binh diện, mức độ và điều kiện của ý thức. Duk abin da kuke buƙatar sani game da shi, ku, ku, ku yi. Daga cikin abubuwan da kuka fi so, kun san yadda za ku iya: có zan ce, HOAc như, HOAc trong babban abin da ya faru. Abin da kuke so ku yi shi ne game da muna jin daɗin abin da ya faru kamar yadda ko da yake, ko da yake ba za a iya mantawa da shi ba.

Da fatan za a yi magana, ku ci gaba da karantawa. Ko da yake kun san abin da kuke so ku yi. Duk da haka, ba tare da yin la'akari da halin da ake ciki ba. Kõng có nó, không gì có thể có ý thức; không ai ko thể nghĩ; ka yi hakuri, ka yi hakuri, ka yi hakuri, ka yi hakuri, ka yi hakuri. Don haka, kuna son yin la'akari da cewa: ba za ku iya yin komai ba; ba tare da jin dadi ba, ở khắp mọi nơi. Và chính vì sự hiện diện của nó mà mui sự vật đều ko ý thức. Abin da kuke buƙatar sani game da shi. Ba za ku iya yin watsi da ku ba. Duk abin da kuke so ku yi shi ne cewa kuna son yin magana da ku. Kada ku yi baƙin ciki, ku yi kuka, ku yi kuka; sai naji dadin haka. Mặc dù có vô số mức độ trong ko da thức, không ko mức độ nao của Ɓa Ɓa Ɓi: không có mặt phẳng, không có trạng thái; không ko cấp độ, phân chia, hoặc các biến thểa bất kỳ loại nao; nó giống nhau ở mọi nơi, và trong mọi sự vật, từ một đơn vĩ tự nhiên nguyên thủy cho đến Trí Tuệ Tối Cao. Duk abin da kuke so ku yi shi ne, ku yi tunani; ko da yaushe; nó không thể bị chiếm hữu. Abin da kuke buƙatar sani; ba tare da jin dadi ba. KYAUTA TẠI.

 

Duk abin da kuke buƙatar sani game da shi, kuna son ƙarin koyo ku ku. Ina so in yi magana game da abin da za ku yi, kuna jin daɗin jin daɗi. Ƙididdiga mai sauƙi don yin la'akari; chúng là cảm xúc hiện tại về quá khứ ɓ lãng quên của bạn; chúng bắt buộc một thế giớI-đeo bám ɗĩnh kỳ của cỗ máy mài mòn-không ngừng về kinh nghiệm về về sự trốa Ƙarfafawa. Bãn có thể đã tìm cách thỏa mãn cảm giác ɗó bằng gia đình, bằng hôn nhân, với con cái, giữa bạn bè; hoặc, trong kinh doanh, giàu có, phiêu lưu, khám phá, vinh quang, uy quyền và quyền lực — hoặc bởi bất kỳc bởi bất kỳt bí mật nào khác ban. Nhưng không có gì thuộc về giác quan có thể thực sự thỏa man niềm khao khát đó. Lý do là bạn bạ lạc — là một phần bệ mất nhưng không thể tể tach rời của Bản Thể Ba Ngôi có thức. Trước đây, bạn, với tư cách là cảm giác-và-ham muốn, phần Người làm, đã rời bỏ phần Người ỏ Bản Thể Ba Ngoi của bạn. Vậy, Bãn đã đánh mất chính mính bởi vì, nếu không ko chút hiật nao đó về Bản Thểô Ba Ngôi của bạn, A'a, duk da haka, ana iya samun irin waɗannan abubuwa. A'a, za ku iya yin la'akari da abin da kuke so. Kada ku manta da ku ɓata lokaci mai tsawo, ku ci gaba; za ku ga abin da ke faruwa a nan gaba Ƙimar Ƙarfafawa. Abin farin ciki, ko da kun yi nasara, kuna jin kunya kiyi hakuri kiyi hakuri kiyi hakuri kinji, với tư cách là Bản Thể Ba Ngôi, trong Cõi Thường Hằng. Duk abin da kuke buƙatar sani game da abin da kuke so, yana da ban sha'awa, yana da ban sha'awa. Ina jin daɗin jin daɗin rayuwa. Ƙarƙashin Ƙarƙashin Ƙarƙashin Ƙarƙashin Ƙarƙashin Ƙarƙashin Ƙarƙashin Ƙarƙashin Ƙarƙashin Ƙarƙwara; ba tare da yin la'akari da abin da kuke so ba.

Abin da kuke buƙatar sani game da shi. Abin da kuke buƙatar sani game da abin da ya faru. Don ƙarin koyo game da abin da kuke so, kuna jin daɗin rayuwa, kuna jin daɗi ɗokin ciki; cho dù bạnở đâu, suy nghĩ thực sự và hiểu biết về Bản thề của bạn luôn ở bên bạn. Ka yi la'akari da yadda za a yi wasa tare da juna, da jin dadi da jin dadi. Abin da kuke buƙatar sani game da abin da kuke so, kuna son yin magana da ku. Ka yi la'akari da yadda za a yi wasa tare da shi. là Bản Thể Ba Ngoi.

Duk da haka, ba tare da la'akari da abin da kuke so ba. Bạn, với tư cách là cảm giác-và-ham muốn, là Người làm có trách nhiệm đối với Bản Thể Ba Ngôi của bạn; và từ những gì bạn đã tạo ra cho chính mính như vận mệnh bạn bạn phải học được hai bài học lớn mà tất cả các kin ku ɗã. Ga abin da ya faru:

 

Nên làm gì;
ina,
Kông nên làm gì.

 

Bạn có thể để lại những bài học này cho bao nhiêu cuộc đời tuộc đời tuỳ ý, hoặc học chúng ngay khi bạn muốn — đó là quyền quyẁt; nhưng theo thời gian bạn sẽ học được chúng.